Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập môn Lịch sử Việt Nam Lớp 8
Văn học dân gian ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca.... Đây là những tài liệu có giá trị, nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh họa, làm rõ sự kiện, nhân vật lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử đó....
Ví dụ: khi dạy bài 24 “Cuộc kháng chiến từ 1858 đến năm 1873” khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này:
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày. .........”
Hay ở bài 29 mục II- phần 2: Khi phân tích về giai cấp công nhân đầu thế kỉ XX người công nhân bị bóc lột rất nặng nề, đời sống khốn khổ giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các câu sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo”
Hay: “Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
- Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh động, tạo được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh những hiểu biết về các sự kiện lịch sử đang học, giúp học sinh hiểu được vấn đề cụ thể rõ ràng hơn.
Ví dụ như khi dạy bài 25: Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 – 1884) mục II – phần 2: Nhân dân Bắc kì tiếp tục kháng Pháp. Để làm cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất cũng như hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874 nữa. Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe hai câu ca dao sau:
“Một nhà sinh được ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài”
(Ba vua này là Đồng Khánh (sống), Kiến Phúc (chết), Hàm Nghi chạy ra Sơn phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà)). Tất nhiên giáo viên cần lưu ý giải thích từ “thua” thuộc quan điểm giai cấp nào?
- Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết được, hiểu được về chí khí con người, về địa danh của một nhân vật lịch sử nào đó.
Ví dụ: Khi dạy bài 25 “Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884), ở mục I- phần 3: Kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì (1873 – 1874). Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883) (mục II- phần 2), chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
“Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lòng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương.”
- Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tai_lieu_van_hoc_giup_hoc_sinh.doc